Marketing là gì ? Nếu bạn quan tâm đến ngành Marketing, hãy cùng tìm hiểu chuyên sâu các thuật ngữ , các công việc liên quan đến Marketing và hơn thế nữa.
Nhằm mục tiêu giúp những người làm marketing, đặc biệt là những marketer đang tìm hiểu về ngành một cách bài bản, bài viết sẽ cung cấp hầu hết những kiến thức liên quan đến nghề như marketing là gì, các mô hình quản trị marketing phổ biến nhất hiện nay, làm marketing là làm gì và nhiều nội dung liên quan khác.
Dưới đây là các nội dung sẽ được phân tích trong bài.
- Marketing là gì?
- Marketer là ai? Những cấp độ của Marketer trong nấc thang sự nghiệp có thể là gì?
- Những tố chất và kỹ năng cần có của một marketer.
- Marketing và Tiếp thị.
- Lịch sử phát triển của ngành Marketing.
- Marketing và Thương hiệu.
- Digital Marketing là gì?
- Traditional Marketing là gì?
- Ngành Marketing là gì – Học Marketing là học những gì?
- Học Marketing ra trường có thể làm những công việc gì?
- Làm Marketing là làm gì?
- Các mô hình quản trị Marketing phổ biến nhất trên thế giới hiện nay.
- Nghiên cứu Marketing là gì?
- Chiến lược Marketing.
- Lập kế hoạch truyền thông Marketing tổng thể.
- Học Marketing ra trường nên chọn Agency Side hay Client Side?
- Một số câu hỏi thường gặp trong ngành Marketing là gì?
Mục lục bài viết
- Marketing là gì?
- Marketer là ai?
- Những tố chất và kỹ năng cần có của một Marketer.
- Những cấp độ của Marketer trong nấc thang sự nghiệp có thể là gì?
- Marketing và Tiếp thị.
- Lịch sử phát triển của ngành Marketing.
- Marketing và thương hiệu (Brand).
- Digital Marketing là gì?
- Traditional Marketing là gì?
- Ngành Marketing là gì – Học Marketing là học những gì?
- Học Marketing ra trường có thể làm những công việc gì?
- Làm Marketing là làm gì?
- Các mô hình quản trị Marketing phổ biến nhất trên thế giới hiện nay.
- Nghiên cứu Marketing (Marketing Research) là gì?
- Để thiết lập một bản kế hoạch marketing tổng thể cần làm những công việc gì?
- Học Marketing ra trường nên chọn Agency Side hay Client Side?
- Một số câu hỏi thường gặp trong ngành Marketing là gì?
- Kết luận.
Marketing là gì?
Khi nói đến những khái niệm về marketing, “marketing là gì?” là một trong những câu hỏi tưởng chừng như đơn giản nhưng thực chất lại vô cùng khó khăn.
Trong khi có vô số các thuật ngữ hay khái niệm đề cập đến marketing, không có bất cứ một định nghĩa nào đến thời điểm hiện tại được cho là toàn diện và “đúng đắn” nhất.
Cho dù doanh nghiệp hay thương hiệu của bạn đang hoạt động trong lĩnh vực nào, nhu cầu về marketing ra sao, tuỳ thuộc vào từng góc nhìn và cách tiếp cận, marketing được hiểu theo những cách tương đối khác nhau.
Dưới đây là một số khái niệm về marketing đáng tham khảo nhất.
1. Marketing theo quan điểm của “Cha đẻ Marketing hiện đại” Philip Kotler.
Theo Giáo sư Philip Kotler, Marketing là khoa học và nghệ thuật khám phá, tạo ra và cung cấp giá trị nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường mục tiêu. Marketing xác định những nhu cầu và mong muốn chưa được đáp ứng để từ đó mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Marketing cũng liên quan đến việc xác định, đo lường và định lượng quy mô của thị trường, xác định phân khúc nào doanh nghiệp có khả năng phục vụ tốt nhất và từ đây thiết kế ra những sản phẩm và chương trình quảng bá phù hợp nhất.
Dưới góc nhìn của Philip Kotler, Marketing là tất cả những gì liên quan đến việc đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và thị trường mục tiêu, với ông, thị trường luôn là nền tảng.
2. Thuật ngữ Marketing được AMA (Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ) hiểu như thế nào.
Theo AMA, Marketing là toàn bộ các hoạt động và quy trình được thực hiện để tạo ra, truyền tải, phân phối và trao đổi các sản phẩm hay dịch vụ có giá trị cho khách hàng, đối tác và xã hội nói chung.
Cũng có phần tương tự như định nghĩa của Philip Kotler, AMA một lần nữa tập trung vào yếu tố khách hàng và giá trị khi nói đến Marketing.
3. MarketingTrips cũng có một định nghĩa về Marketing.
Theo góc nhìn của MarketingTrips, Marketing là hoạt động tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh.
Khái niệm này đã bao gồm rất nhiều quy trình của hoạt động Marketing như: nghiên cứu thị trường để tìm hiểu được nhu cầu thực sự của khách hàng (insights), nghiên cứu sản phẩm, nghiên cứu về giá, phân phối và tất nhiên kể cả những hoạt động xúc tiến (quảng cáo, PR, khuyến mãi, marketing trực tiếp, bán hàng cá nhân)…
Marketer là ai?
Tất cả những người làm các công việc liên quan đến marketing được gọi là marketer. Cũng tương tự như khái niệm về marketing, “hình thù” của các marketer trong thực tế cũng tương đối da dạng.
Tuỳ thuộc vào từng loại hình của doanh nghiệp, cơ cấu doanh nghiệp, ngành nghề, quy mô của doanh nghiệp…mà các marketer có thể gánh vác các nhiệm vụ khác nhau.
Có những doanh nghiệp, mặc dù tên gọi là “nhân viên marketing” tuy nhiên công việc chủ yếu là xây dựng nội dung, có doanh nghiệp thì marketer chủ yếu chạy quảng cáo, và có doanh nghiệp thì marketer chủ yếu làm SEO.
Thường thì ở các doanh nghiệp lớn hơn hoặc được tổ chức chuyên nghiệp hơn, các marketer “đóng tròn vai” hơn, họ làm đúng các công việc của một marketer chuyên nghiệp.
Liên quan đến các công việc của marketer, một câu hỏi được không ít các marketer mới (newbie) quan tâm là sau khi ra trường và đi làm, họ có thể trải qua những cấp độ gì?
Những tố chất và kỹ năng cần có của một Marketer.
Trong những năm trở lại đây từ khoảng những năm 2015, khi các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Instagram hay sau này là TikTok trở nên phổ biến hơn và trở thành một trong những kênh làm marketing chủ lực của các thương hiệu, các kỹ năng và tố chất của một marketer “tiêu chuẩn” cũng thay đổi khá nhiều.
Trong khi tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, vị trí công việc và mục đích của bản thân, các marketer có thể cần các kỹ năng (kỹ năng cứng và kỹ năng mềm) khác nhau, dưới đây là một số kỹ năng và tố chất chính nên có.
- Kỹ năng làm chiến lược: Với các vị trí quản lý, chiến lược là kỹ năng quan trọng nhất của những người làm marketing. Trước khi tiến hành thực hiện các chiến thuật như quảng cáo hay nghiên cứu thị trường, marketer cần có một bức tranh rộng lớn hơn về nơi thương hiệu sẽ đến và đạt được mục tiêu.
- Kỹ năng thấu hiểu khách hàng: Như đã phân tích ở trên, marketing là tất cả những gì liên quan đến khách hàng và nhu cầu của khách hàng. Cũng từ thực tế này, người làm marketing cần thực sự có khả năng đồng cảm và chia sẻ với khách hàng của họ.
- Kỹ năng phân tích dữ liệu: Trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và các ứng dụng của công nghệ vào marketing như Big Data, AI, hay các mô hình máy học (machine learning) của các nền tảng quảng cáo như Google và Facebook, kỹ năng phân tích dữ liệu (data analysis) ngày càng trở nên cấp thiết hơn. Bằng cách phân tích các dữ liệu có được từ các nền tảng của bên thứ nhất (first party data) lẫn các bên thứ ba nếu có, marketer có nhiều cách hơn để hiểu và dự báo các xu hướng hay nội dung (content) mà khách hàng có khả năng tương tác cao nhất.
- Kỹ năng làm nội dung (content creator & marketer): Một trong những kỹ năng quan trọng hàng đầu tiếp theo cần có của một marketer là khả năng xây dựng, phân tích và tối ưu nội dung. Vì suy cho cùng thứ cuối cùng mà khách hàng nhìn thấy là nội dung của các thương hiệu, tính liên quan và cá nhân hoá của nội dung dần trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
- Kỹ năng sử dụng các nền tảng mạng xã hội: Khi mạng xã hội tiếp tục là nơi người tiêu dùng chọn để giải trí, mua sắm và hơn thế nữa, việc sử dụng thành thạo các cách làm nội dung, phân tích, hiểu thuật toán, và tối ưu hoá lượt tiếp cận là một trong những yêu cầu hàng đầu đối với các marketer.
- Kỹ năng chạy quảng cáo (Paid Media): Đối với hầu hết các doanh nghiệp, quảng cáo là một trong những hoat động tiêu tốn nhiều ngân sách marketing nhất. Tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp, mức độ đầu tư có thể khác nhau, tuy nhiên nếu bạn có khả năng vận hành và tối ưu quảng cáo trên các nền tảng phổ biến như Google, Facebook, TikTok hay LinkedIn, bạn hoàn toàn có thể trở thành một Digital Marketer.
- Kỹ năng SEO: SEO hay tối ưu hoá nội dung trên các công cụ tìm kiếm cũng là một trong những năng được yêu cầu nhiều nhất từ phía các nhà tuyển dụng, bằng cách tối ưu hoá nội dung (on-page và off-page), thương hiệu có nhiều lượt truy cập tự nhiên miễn phí hơn trên các công cụ tìm kiếm.
- Kỹ năng quản lý nền tảng (platforms): Đặc biệt với các digital marketer, việc am hiểu cách sử dụng các nền tảng kỹ thuật số như website (CMS), ứng dụng (app), CRM, các công cụ phân tích từ khoá, các công cụ social listening hay các nền tảng đo lường hiệu suất khác cũng quan trọng không kém. Trong bối cảnh hiện tại, sẽ rất khó trở thành một marketer chuyên nghiệp mà không có các kỹ năng này.
Những cấp độ của Marketer trong nấc thang sự nghiệp có thể là gì?
Mặc dù trong thực tế không phải người làm marketing nào cũng có thể trải qua đúng thứ tự các cấp bậc khác nhau, dưới đây là các cấp bậc tiêu chuẩn bạn có thể tham khảo.
- Marketing Executive: Tạm dịch là nhân viên marketing, đây được xem là vị trí thấp nhất của một marketer chính thức. Ở một số doanh nghiệp, vị trí này còn tương đồng với các tên gọi khác như nhân viên marketing hay thậm chí là chuyên viên marketing.
- Marketing Specialist: Cấp độ tiếp theo của một nhân viên marketing là chuyên viên marketing. Ví trí này có thể cùng cấp bậc với vị trí Senior Marketing Executive (nhưng không nhất thiết vì nó chỉ mang tính tương đối).
- Marketing Leader: Có thể hiểu là trưởng nhóm marketing, một marketing leader sẽ chịu trách nhiệm quản lý (cũng có thể là không) các nhân viên của mình. Người này sẽ đưa ra các kế hoạch marketing tổng thể đồng thời cũng thực hiện các công việc cụ thể như nhân viên.
- Marketing Manager: Tuỳ theo cách gọi của từng doanh nghiệp, vị trí này cũng có thể hiểu là trưởng phòng marketing, trưởng nhóm marketing hoặc cũng có thể được coi là giám đốc marketing. Ở những mô hình tiêu chuẩn, marketing manager có thể quản lý các vị trí cấp dưới chính là các vị trí được nói ở trên.
- Marketing Director (hoặc Head of Marketing): Được xem là một giám đốc marketing (CMO) thực thụ, vị trí này có vai trò tương đối lớn trong doanh nghiệp. Ở các doanh nghiệp quy mô nhỏ, vị trí này có thể không tồn tại.
- VP of Marketing: Phó Chủ tịch phụ trách Marketing. Với các doanh nghiệp có quy mô (thường là có quy mô toàn cầu), vì tính chất công việc quá phức tạp và nhiều danh mục sản phẩm khác nhau, họ cần những vị trí marketing với vai trò lớn hơn. Một VP of Marketing thường có trách nhiệm tương đương như một Tổng giám đốc hoặc Phó tổng giám đốc phụ trách chuyên môn, họ chủ yếu chịu KPIs cuối cùng là về doanh số bán hàng.
Marketing và Tiếp thị.
Có một khoảng thời gian, thuật ngữ marketing đã được sử dụng tương đương với tiếp thị, tuy nhiên vì tiếp thị không bao hàm và lột tả được các công việc của marketing. Sau này marketing được giữ nguyên từ gốc là tiếng Anh thay vì được dịch sang tiếng Việt là tiếp thị.
Cũng có một lý do khác khiến marketing và tiếp thị có nhiều phần nhầm lẫn nếu sử dụng tương đương.
Trong khi khái niệm tiếp thị (nhân viên tiếp thị) chủ yếu đề cập đến việc truyền tải các thông điệp (communications), giao tiếp và thậm chí là bán hàng. Marketing bao hàm nhiều công việc hơn từ nghiên cứu thị trường, thiết kế sản phẩm, xây dựng chiến lược giá bán và nhiều công việc khác.
Lịch sử phát triển của ngành Marketing.
Theo Giáo sư Philip Kotler đã đề cập trong cuốn sách về marketing mới nhất của ông, Marketing 5.0 – Technology for Humanity, ngành marketing nói chung phát triển và gắn liền với các yếu tố như văn hoá, con người, xã hội, kinh tế và cả chính trị.
Theo quan điểm này, Marketing chưa bao giờ là khái niệm tách rời và nằm độc lập với các bối cảnh bao hàm xung quanh nó.
Tính đến thời điểm hiện tại năm 2022, lịch sử ngành marketing đã trải qua 4 giai đoạn lớn khác nhau và hiện đang ở trong giai đoạn thứ năm (Marketing 5.0).
- Marketing 1.0: Là giai đoạn mà các hoạt động marketing gắn liền với sản phẩm và được định hướng bởi sản phẩm (product-driven marketing). Theo cách tiếp cận của Marketing 1.0, làm marketing là tất cả những gì liên quan đến việc bán các sản phẩm mình có đến tay người tiêu dùng.
- Marketing 2.0: Khác với cách tiếp cận của Marketing 1.0, Marketing 2.0 bắt đầu quan tâm đến khách hàng và nhu cầu của họ. Các hoạt động marketing khi này được thực hiện dựa trên các yêu cầu khác nhau của khách hàng (customer-oriented marketing).
- Marketing 3.0: Ở một cấp độ phát triển cao hơn những gì mà Marketing 1.0 và 2.0 đại diện, Marketing 3.0 tập trung vào yếu tố con người (human-centric marketing). Theo góc nhìn của Marketing 3.0, khách hàng không chỉ tìm kiếm sự hài lòng trong yếu tố chức năng của sản phẩm và cảm xúc mà còn cả sự trọn vẹn về mặt tinh thần từ các thương hiệu mà họ đã chọn.
- Marketing 4.0: Lần đầu tiên được ra mắt vào năm 2016, thuật ngữ Marketing 4.0 gắn liền với các yếu tố kỹ thuật số (Digital), Marketing trong thế giới số không dựa một cách độc lập vào các kênh và phương tiện truyền thông kỹ thuật số. Sự phân chia trong thế giới số vẫn tồn tại; do đó, marketing yêu cầu một cách tiếp cận đa kênh (omnichannel) cả trực tuyến (online) lẫn ngoại tuyến (offline). Marketing 4.0 là kết quả mà những gì yếu tố công nghệ và kỹ thuât số đã mang lại.
- Marketing 5.0: Trong cuốn sách mới đây được ra mắt vào đầu năm 2022, Giáo sư Philip Kotler và các đồng nghiệp đã xuất bản cuốn sách mới nhất về Marketing 5.0 với chủ đề Technology for Humanity (tạm dịch là Công nghệ vì nhân loại). Marketing 5.0 được ra đời trong bối cảnh các yếu tố công nghệ đã phát triển đến một cấp độ mới làm thay đổi nhiều khía cạnh của cuộc sống, kinh tế và con người.
Marketing và thương hiệu (Brand).
Khi nói đến marketing, không thể không nhắc đến thương hiệu. Ở trong một doanh nghiệp cụ thể, marketing và thương hiệu là hai bộ phận chủ chốt nhất.
Trong khi các doanh nghiệp khác nhau có thể có các cơ cấu phòng ban và nhiệm vụ khác nhau, marketing và thương hiệu có thể được gộp chung vào một Team hoặc được tách thành hai Team riêng biệt.
Vai trò chính và cuối cùng của marketing là khách hàng và doanh số bán hàng, còn thương hiệu thì thường là liên quan đến các công việc như xây dựng hình ảnh thương hiệu, định vị thương hiệu, xây dựng niềm tin của người dùng với thương hiệu, và nhiều công việc khác.
Như đã phân tích ở trên, theo cách tiếp cận là vị trí, với các doanh nghiệp lớn, vị trí lớn nhất liên quan đến Marketing là VP of Marketing, người này chịu trách nhiệm toàn bộ về các thương hiệu hay nhãn hàng (Brand) bên dưới.
Tuy nhiên, nếu xét về tổng thể doanh nghiệp, thương hiệu là thứ duy nhất dùng để phân biệt một sản phẩm hay doanh nghiệp với các doanh nghiệp còn lại.
Khách hàng cuối cùng sẽ quan tâm đến thương hiệu và tất cả các hoạt động marketing cuối cùng cũng nhằm mục đích xây dựng điều đó.
Nói tóm lại, trong hầu hết các doanh nghiệp, marketing và thương hiệu có mối quan hệ khăng khít và tương hỗ lẫn nhau.
Digital Marketing là gì?
Theo Wikipedia, được sử dụng lần đầu vào những năm 1990, khái niệm digital marketing đề cập đến những hoạt động marketing dựa trên yếu tố internet và công nghệ kỹ thuật số (digital technology).
Khi các nền tảng kỹ thuật số (digital platforms) ngày càng được tích hợp nhiều hơn vào các kế hoạch marketing và cuộc sống hàng ngày.
Và khi mọi người ngày càng sử dụng nhiều hơn các thiết bị kỹ thuật số (điện thoại thông minh, máy tính để bàn, máy tính bảng…) để ghé thăm cửa hàng thay vì đến các cửa hàng thực, thuât ngữ digital marketing ngày càng trở nên phổ biến hơn.
Liên quan đến khái niệm digital marketing, có một số khái niệm khác mà không ít người làm marketing vẫn hay nhầm lẫn.
- Internet Marketing: Đồng nghĩa với khái niệm marketing online, internet marketing hoặc E-Marketing bao hàm tất cả các hoạt động marketing trên môi trường trực tuyến.
Traditional Marketing là gì?
Ở khía cạnh ngược lại với digital marketing, traditional marketing hay marketing truyền thống là tất cả các hoạt động marketing không sử dụng các yếu tố kỹ thuật số hay liên quan nhiều đến công nghệ.
Marketing truyền thống gắn liền với các hoạt động marketing trên các kênh truyền thông đại chúng như TV, báo chí, hay các kênh khác như điện thoại, gửi thư trực tiếp, radio và cả quảng cáo ngoài trời (OOH).
Ngoài ra, Marketing truyền thống cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp cận các khán giả địa phương, những nơi mà digital marketing không có mấy tác dụng.
Ngành Marketing là gì – Học Marketing là học những gì?
Cũng tương tự những ngành khác như tài chính, kế toán, công nghệ thông tin…Marketing hiện cũng là một ngành học được đào tạo trong cả những trường chính quy lẫn dân lập, từ các trường đại học, học viện đến cao đẳng.
Đối với hầu hết các trường, chuyên ngành marketing thuộc ngành lớn là quản trị kinh doanh cùng với một chuyên ngành khác là quản trị kinh doanh tổng hợp.
Tuy nhiên, ở một số trường khác nhau, ngành học marketing cũng có thể được tách rời và không thuộc quản trị kinh doanh.
Với một chuyên ngành marketing tiêu chuẩn, ngoài các môn học đại cương, các bạn sinh viên sẽ học chủ yếu các môn học chuyên ngành như nghiên cứu thị trường, marketing căn bản, tâm lý học đại cương, quản trị marketing, quản trị thương hiệu, quản trị bán hàng và nhiều môn học khác.
Học Marketing ra trường có thể làm những công việc gì?
Một trong những câu hỏi được rất nhiều người mới, cả những sinh viên học marketing lẫn những người có ý định theo ngành marketing đặt ra đó là sau khi học xong marketing thì họ có thể làm những công việc cụ thể gì trong doanh nghiệp.
Thực sự khó có thể tìm được một câu trả lời thoả đáng cho câu hỏi này. Trong thực tế, sau khi học ra trường, vì nhiều lý do khác nhau (cả chủ quan và khách quan), các bạn có xu hướng lựa chọn nhiều con đường khác nhau.
Có bạn thì theo ngành marketing, có bạn thì làm kinh doanh (sales), và cũng có không ít bạn “chọn cho mình một lối đi riêng”.
Về bản chất, vì học (tất cả các cấp bậc học từ mầm non đến đại học) là học tư duy và chuyển hoá tư duy, việc học một ngành nào đó không nhất thiết là phải ra trường và đi làm đúng công việc đó.
Thực tế cho thấy có nhiều bạn làm trái nghề nhưng lại có được nhiều thành công hơn so với những bạn theo nghề và ngược lại.
Nếu các bạn vẫn chọn marketing là công việc hay nghề chính để theo đuổi, tuỳ vào từng nhu cầu khác nhau của doanh nghiệp và mong muốn của bản thân, dưới đây là một số vị trí về marketing mà bạn có thể làm.
- Nhân viên marketing.
- Nhân viên thương hiệu.
- Nhân viên digital marketing.
- Nhân viên sản xuất nội dung (content marketing).
- Nhân viên chạy quảng cáo.
- Nhân viên bán hàng.
- Nhân viên nghiên cứu thị trường.
- Và nhiều vị trí khác ở các Agency như: Account (tìm kiếm và quản lý khách hàng), Media Planner (lập kế hoạch truyền thông), Media Buyer…
Làm Marketing là làm gì?
Cũng tương tự như khái niệm marketing hay marketing là gì, câu hỏi “làm marketing là làm gì?” cũng sẽ nhận được câu trả lời tương ứng, tuỳ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp, mô hình kinh doanh, mục tiêu chiến lược và nhiều thứ khác, các công việc cần làm của marketing cũng sẽ khác nhau.
Ở góc độ tiếp cận rộng, làm marketing có thể là làm traditional marketing (làm các công việc marketing truyền thống) hoặc digital marketing (làm marketing trên các nền tảng kỹ thuật số).
Ở góc độ liên quan đến mục tiêu hay nhiệm vụ của marketing trong doanh nghiệp, làm marketing có thể là làm brand marketing (sử dụng các công cụ marketing để xây dựng thương hiệu) hoặc performance marketing (thực hiện các hoạt động marketing chủ yếu nhằm mục tiêu phát triển lượng khách hàng tiềm năng và bán hàng).
Hoặc cũng có thể phân tích các công việc của marketing liên quan đến cấp phòng ban. Nếu doanh nghiệp có bộ phận trade marketing và digital marketing, làm marketing là làm trade và digital marketing, nếu doanh nghiệp chỉ có bộ phận quảng cáo (paid media), làm marketing cũng có thể được hiểu là chạy quảng cáo.
Liên quan đến câu hỏi này, có một số câu trả lời mang tính liệt kê như làm marketing là làm: content marketing, digital marketing, brand marketing, SEO, SEM, video marketing, advertising, affiliate marketing (tiếp thị liên kết), influencer marketing, social media marketing, PR Online…
Mặc dù câu trả lời trên không sai, tuy nhiên nếu xét về góc độ tiếp cận từ lớn tới bé, từ rộng tới hẹp, từ vĩ mô đến vi mô, bạn nên tiếp cận từ góc độ yêu cầu của doanh nghiệp và ngành trước khi liệt kê tất cả những gì mà người làm marketing có thể làm.
Các mô hình quản trị Marketing phổ biến nhất trên thế giới hiện nay.
Cũng có thể được sử dụng để trả lời cho câu hỏi “làm marketing là làm gì”, các mô hình quản trị marketing đóng vai trò như các kim chỉ nam giúp định hướng các công việc hay sứ mệnh marketing của một tổ chức hay thương hiệu cụ thể.
Mô hình Marketing hay Marketing Model là gì?
Mô hình marketing là một công cụ mà các nhà tiếp thị (marketers) và doanh nghiệp sử dụng để hiểu được sức mạnh và tiềm năng doanh thu của một sản phẩm, thương hiệu hay một doanh nghiệp cụ thể.
Các mô hình marketing xem xét các chiến lược và tham số tổng thể liên quan đến việc marketing, truyền thông, quảng cáo… cho một thương hiệu hay các sản phẩm của doanh nghiệp đó.
Dưới đây là tất cả những gì bạn cần biết về các mô hình marketing.
1. Mô hình SWOT và TOWS.
SWOT và TOWS đều là những từ viết tắt của điểm mạnh (S – Strengths), điểm yếu (W – Weaknesses), cơ hội (O – Opportunities) và mối đe dọa (T – Threats).
Trong khi cả hai mô hình đều sử dụng những yếu tố giống nhau khi phân tích, TOWS nhấn mạnh đến yếu tố môi trường bên ngoài còn SWOT tập trung vào môi trường bên trong (nội bộ).
2. Mô hình tiếp thị hỗn hợp 4Ps (Marketing Mix – 4Ps).
4Ps đại diện cho sản phẩm (P – Products), giá (P – Price), phân phối (P – Place) và xúc tiến (Promotion). Mô hình marketing 4Ps thường được áp dụng cho các doanh nghiệp có sản phẩm là hàng hoá (hữu hình).
3. Mô hình tiếp thị hỗn hợp 7Ps (Marketing Mix – 7Ps).
7Ps là mô hình tiếp thị hỗn hợp được phát triển dựa trên 4Ps và thường áp dụng cho các mô hình sản phẩm là dịch vụ (vô hình).
Ngoài bốn chữ cái P đã được thể hiện trong 4Ps, 7Ps còn có thêm con người (P – People), quy trình (P – Process) và những minh chứng hữu hình (P – Physical evidence).
4. Mô hình quản trị marketing tích hợp: R-STP-MM-I-C.
R-STP-MM-I-C là một trong những mô hình quản trị marketing toàn diện nhất khi mô hình đi từ những yếu tố căn bản của quá trình làm marketing như nghiên cứu thị trường (R – Research) đến phân khúc (S – Segmentation), lựa chọn thị trường mục tiêu (T – Targeting), định vị thương hiệu (P – Positioning) tới các chiến lược tiếp thị hỗn hợp (MM – Marketing-Mix), thực thi hoạt động marketing (I – Implementation) và kiểm tra kết quả (Checking).
R-STP-MM-I-C sử dụng kiểu tiếp cận từ trên xuống (top-down) bằng cách tập trung từ yếu tố khách hàng và thị trường, cũng theo cách này, những gì thực hiện sau đó sẽ được thiết kế theo từng nhóm khách hàng mục tiêu cụ thể với các thông điệp và cách tiếp cận khác nhau.
5. Mô hình AISAS.
Được ra đời trong thời kỳ phát triển mạnh của digital marketing và cũng có chút phần giống với mô hình AIDA, mô hình AISAS đề cập nhiều đến hành vi của khách hàng trước khi quyết định mua một thứ gì đó.
Mô hình được bắt đầu từ giai đoạn nhận biết (Awareness), thích thú (Interest), tìm kiếm (Search), hành động (Action) và cuối cùng là chia sẻ (Share).
6. Mô hình AIDA.
Có thể nói AIDA là một trong những mô hình đơn giản và dễ hiểu nhất trong các mô hình về marketing. Tiếp cận theo góc nhìn hành trình tiêu chuẩn của khách hàng, AIDA giúp người làm marketing theo đuổi khách hàng từ các giai đoạn chú ý và tìm hiểu (A -Attention), đến thích thú (I – Interest), đến khao khát (D – Desire) và cuối cùng là thực hiện hành động (A – Action).
Với mô hình này, những gì các marketer cần làm là thiết kế các chiến lược và chiến thuật marketing nhằm đáp ứng các yêu cầu khác nhau của khách hàng trong từng giai đoạn khác nhau.
Marketing là gì? hay làm marketing là làm gì? cũng có thể được trả lời theo cách tiếp cận này từ các mô hình quản trị marketing.
7. Mô hình 3Cs.
Trong quá trình tăng trưởng, các thương hiệu không thể tránh khỏi sự cạnh tranh từ các đối thủ trong thị trường.
Sự cạnh tranh này sẽ làm cho chi phí để có được một khách hàng mới ngày càng tăng. Làm giảm tỉ lệ lợi nhuận, tệ hơn nữa là thương hiệu sẽ dần mất thị phần.
Chìa khóa để các thương hiệu tìm ra hướng đi đúng đắn, chính là mô hình 3Cs: Company – Competitors – Customers.
Khi tiếp cận theo mô hình này, các chiến lược marketing tối ưu là các chiến lược được xây dựng dựa trên sự kết hợp của doanh nghiệp, đối thủ và khách hàng. Các hành động hay chiến thuật được đưa ra nên thoả mãn hay nằm ở giao điểm của cả ba yếu tố này.
Ngoài các mô hình marketing phổ biến nói trên còn rất nhiều các mô hình khác hoặc thậm chí là mô hình kết hợp vận dụng từ các mô hình hiện có.
Tuy nhiên có một lưu ý bạn nên nhớ là, dù cho mô hình mà bạn chọn là gì, là đơn lẻ hay kết hơp hoặc xây dựng một mô hình mới, nền tảng của mọi hoạt động hay quyết định marketing đều nên xuất phát từ góc nhìn của khách hàng và thị trường thay vì là các quan điểm chủ quan của marketer.
Nghiên cứu Marketing (Marketing Research) là gì?
Theo định nghĩa của Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ (AMA), nghiên cứu marketing là toàn bộ những hoạt động thiết kế, thu thập, phân tích, báo cáo dữ liệu…liên quan đến một tình huống cụ thể mà doanh nghiệp đang đối mặt.
Nghiên cứu marketing thường bao gồm tất cả những gì liên quan đến người tiêu dùng, khách hàng và cộng đồng, những thông tin có được sau nghiên cứu được sử dụng để nhận diện và xác định các cơ hội và vấn đề marketing.
Nghiên cứu marketing cũng liên quan đến các hoạt động quan sát, đánh giá và tinh chỉnh các hiệu suất marketing.
Để thiết lập một bản kế hoạch marketing tổng thể cần làm những công việc gì?
Với những ai làm marketing, đặc biệt là khi đảm nhận các vị trí quản lý. Một bản chiến lược hay kế hoạch marketing đủ toàn diện là bước đi đầu tiên mang yếu tố quyết định.
Trong khi, với mỗi mô hình kinh doanh khác nhau, các mục tiêu khác nhau, các tệp khách hàng khác nhau…các thương hiệu sẽ có những yêu cầu khác nhau đối với marketing, những cách thức tiếp cận và giải quyết vấn đề thì không mấy khác biệt.
Dưới đây là những gì bạn cần làm để xây dựng một bản kế hoạch marketing toàn diện.
Bước 1 – Xác định khoảng thời gian mà bản kế hoạch của bạn sẽ được áp dụng.
Trước khi bắt đầu viết một bản kế hoạch marketing hay thương hiệu, bạn cần phải thống nhất về khoảng thời gian mà bản kế hoạch đó bao hàm. Thông thường, nó sẽ kéo dài trong vòng 12 tháng.
Mặc dù ở bối cảnh hiện tại, khi chúng ta đang sống trong một thế giới VUCA, đầy biến động, một bản kế hoạch sẽ có thể đi chệch hướng hay có thể được thay đổi khi các sự kiện diễn ra theo những cách không mong muốn.
Bạn cần sự nhanh nhẹn và linh hoạt. Nhưng điều này không có nghĩa là bạn không cần một bản kế hoạch hay chiến lược (đủ dài) từ ban đầu.
Sự nhanh nhẹn phụ thuộc vào những sự kiện bất ổn, nhưng kế hoạch mang tính chiến lược đòi hỏi một cách tiếp cận vững chắc từ những thứ đã xảy ra hay tồn tại trước đó. Bản kế hoạch marketing trong 12 tháng vừa quan trọng với những ai ưa thích sự nhanh nhẹn, cũng vừa quan trọng với những ai luôn đòi hỏi sự nhất quán trong cách tiếp cận.
Bạn cũng nên cẩn thận với những chiến lược dài hơi, thường là từ 3-5 năm. Trong khi việc phát triển sản phẩm và tài chính doanh nghiệp thường đòi hỏi những phương pháp tiếp cận kéo dài nhiều năm, các hoạt động marketing sẽ hoạt động hiệu quả nhất trong chu kỳ lập kế hoạch là 12 tháng.
Điều này không có nghĩa là tầm nhìn chiến lược của bạn chỉ kéo dài hay kết thúc sau một năm triển khai. Bạn chắc chắn cần phải có một chiến lược (mang tính kiến trúc tổng thể) trong nhiều năm hay thậm chí là trọn đời, còn với những thứ liên quan đến các hoạt động cụ thể thì tốt nhất nên đặt nó trong một bối cảnh ngắn hơn.
Bước 2 – “Bộ ba” cần có trong mọi kế hoạch marketing.
Một bản kế hoạch marketing hoặc thương hiệu thường trải qua 3 giai đoạn theo tuần tự. Đầu tiên, chúng ta chẩn đoán tình hình bằng cách sử dụng dữ liệu. Thứ hai, chúng ta đưa ra một chiến lược (strategy) thống nhất và thứ ba, chúng ta hoạch định các chiến thuật (tactics) để đạt được mục tiêu chiến lược và thành công trên thị trường.
Về cơ bản, quá trình này sẽ xoay vòng liên tục (thường theo năm), tức là cứ hết năm chúng ta bắt đầu xem xét và chẩn đoán lại vấn đề, sửa đổi chiến lược nếu có và cập nhật các chiến thuật mới.
Một kế hoạch marketing hay thương hiệu tốt sẽ nên tuân theo ba giai đoạn này trong cấu trúc của nó. Mỗi chẩn đoán nên kết thúc bằng một phần chiến lược và cuối cùng là các chiến thuật và ngân sách liên quan đến chúng.
Bạn cũng cần lưu ý rằng, sẽ không có bất cứ một định dạng hay mô hình lập kế hoạch marketing nào là lý tưởng và duy nhất.
Một trong những hiểu lầm của chủ yếu những người làm marketing trẻ (newbie) đó là họ nghĩ rằng họ có thể tìm thấy một bản kế hoạch mẫu có sẵn nào đó cho doanh nghiệp hay thương hiệu của họ.
Tuy nhiên trên thực tế, mọi mô hình chỉ là để tham khảo, còn nhiệm vụ của bạn là vận dụng chúng một cách linh hoạt vào các tình huống cụ thể của mình.
Bước 3 – Nghiên cứu thị trường (Market Research).
Một bản kế hoạch marketing hay thương hiệu tốt được xây dựng dựa trên các dữ liệu hay hiểu biết (insights) cụ thể về khách hàng và thị trường.
Bạn không nên đưa ra các giả định (assumptions) chủ quan hoặc đề cập đến những thông tin quá lỗi thời từ một thị trường đang thay đổi nhanh chóng từng ngày.
Tuy nhiên, có một sai lầm phổ biến của không ít những người làm marketing đó là sử dụng quá nhiều thông tin chi tiết không liên quan đến nghiên cứu thị trường, sử dụng những dữ liệu quá chi tiết hoặc không hiểu những gì nó tiết lộ về thị trường.
Bạn nên nhớ rằng, đây là một bản kế hoạch marketing (mang tính chiến lược) chứ không phải là những nghiên cứu về insights (mang tính chiến thuật). Những insights hay phát hiện của bạn từ thị trường nên chạy xuyên suốt trên tất cả các slide.
Đừng lãng phí quá nhiều thời gian chỉ để nói về những khảo sát quá nhỏ hay những buổi phỏng vấn nhóm tập trung (focus group).
Lời khuyên cho bạn là nên liệt kê tất cả các nghiên cứu bạn đã sử dụng để xây dựng kế hoạch và một vài dòng insights chính cho mỗi phần của nghiên cứu.
Nhiều marketer rất thích nói về những dữ liệu họ có được, những không hiểu rằng không ai quan tâm đến nó cả. Nghiên cứu chỉ là nền tảng cho việc lập kế hoạch, chứ không phải là các hành động hay kết quả cụ thể.
Bước 4 – Phân khúc thị trường (Segmentation).
Một trong những sai lầm lớn của người làm marketing khi phân khúc thị trường đó là họ nghĩ rằng phân khúc liên quan đến thương hiệu hay doanh nghiệp của họ.
Khái niệm phân khúc thị trường vốn không liên quan gì đến tổ chức của bạn mà nó liên quan đến thị trường. Điều đó có nghĩa là, ít nhất về mặt lý thuyết, đối thủ cạnh tranh của bạn có thể phân khúc chính xác giống như bạn.
Phân khúc không phải là chiến lược, nó như là bản đồ của thị trường và do đó nó là một phần của những chẩn đoán (giai đoạn đầu tiên đã đề cập ở trên). Bạn nên sử dụng dữ liệu của mình để xây dựng các mô hình phân khúc – chưa liên quan đến việc nhắm mục tiêu (targeting), mà chỉ là phân khúc tổng quan về toàn bộ thị trường.
Một vài lời khuyên cho bạn ở giai đoạn này là. Đầu tiên, bạn nên đưa toàn bộ phân đoạn vào một slide duy nhất. Tiếp theo, đảm bảo các phân khúc của bạn sẽ dựa trên hành vi (chứ không phải nhắm mục tiêu), quy mô dân số, giá trị và thị phần ước tính.
Đừng nên thêm bất cứ thứ gì khác ngoài bốn nội dung này.
Cuối cùng, hãy đảm bảo dữ liệu của bạn được cập nhật liên tục. Một phân khúc tốt không nên thay đổi từ năm này sang năm khác trong một thị trường ổn định.
Bước 5 – Xác định nơi bạn sẽ cạnh tranh (Targeting).
Ở bước 4, nếu phân khúc là bản đồ của thị trường thì việc nhắm mục tiêu (Targeting) là khoảng thời gian để bạn lập kế hoạch và tìm cách chiến thắng thị trường.
Điều đó có nghĩa là nhắm mục tiêu, về cơ bản sẽ trái ngược với phân khúc, tức nó sẽ là về doanh nghiệp hay thương hiệu của bạn và các nguồn lực mà bạn đang có.
Nhắm mục tiêu là bước khởi đầu của chiến lược.
Hãy nhớ rằng nhắm mục tiêu song song (two-speed targeting) không chỉ cho phép mà còn thúc đẩy một cách tiếp cận trong đó bạn nhắm đến toàn bộ thị trường trong dài hạn, xây dựng thương hiệu từ các giai đoạn đầu của phễu bán hàng (ToFu) và sau đó nhắm đa mục tiêu ở các kênh ngắn hạn và tập trung vào các phần cuối của phễu bán hàng.
Để quyết định xem liệu bạn có nhắm mục tiêu đến toàn bộ thị trường hay chỉ chọn ra một vài phân khúc hay không, bạn cần quay lại phần phân khúc thị trường (segmentation) và xác nhận lại các thị trường ưu tiên của mình.
Ở giai đoạn này, để có thể có được các quyết định đúng đắn, bạn nên đa thảo luận với các phòng ban khác, đặc biệt phòng sản phẩm và bán hàng.
Một trong những phạm vi quan trọng đối với nhiều kế hoạch kinh doanh (bao gồm cả kế hoạch marketing và thương hiệu) là liệu có nên nhắm mục tiêu phòng thủ (defensive targeting) để duy trì thị phần trong các phân khúc mà bạn đã thâm nhập tốt hay không.
Nếu khách hàng (cũ) của bạn vẫn đặt hàng từ bạn mà không cần các cuộc gọi chăm sóc từ bộ phận chăm sóc khách hàng hoặc bán hàng, bạn có thể không cần nhắm mục tiêu đến họ nữa và thay vào đó, sử dụng tài nguyên của bạn vào các phân khúc khách hàng khó hơn, có giá trị gia tăng lớn hơn.
Bạn hãy nhớ rằng ngân sách marketing hay nguồn lực của doanh nghiệp là một con số hữu hạn. Bạn không thể sử dụng nhiều tài nguyên giống nhau cho nhiều phân khúc khác nhau. Bạn có thể liệt kê các phân khúc với các điểm số ưu tiên để dễ dàng lựa chọn hơn.
Bước 6 – Nhận diện chân dung khách hàng mục tiêu.
Chân dung khách hàng (Personas) vốn rất phức tạp và ẩn chứa nhiều thứ. Chúng thường được xây dựng dựa trên những giả định hay phỏng đoán vô lý của những người làm marketing, hơn là thực tế những gì đang diễn ra trên thị trường.
Thấu hiểu một chân dung khách hàng chính xác và toàn diện là điều bạn cần làm trước khi thực hiện bất cứ hành động nào.
Bạn nên thực hiện liên tục các cuộc khảo sát chuyên sâu (với khách hàng chính – main target) và thảo luận nhóm tập trung (focus groups) để xây dựng insights và một bức tranh đầy đủ về khách hàng của mình.
Họ là ai? Họ thích và ghét điều gì? Điều gì khiến họ thức tỉnh? Điều gì làm họ lướt qua bạn? Họ đang có những hành động gì liên quan đến các sản phẩm và dịch vụ? Tại sao họ làm điều đó?
Bài học đáng giá nhất cho bất cứ marketer nào là đừng bao giờ mang “thế giới quan” của cá nhân ra để đánh giá hay phỏng đoán về khách hàng.
Bước 7 – Định vị thương hiệu (Positioning).
Rất nhiều người làm marketing không hiểu được khái niệm định vị (positioning). Họ đã biến nó thành những thuật ngữ phức tạp, từng cuốn sách dày cộm nói về thương hiệu và vô số từ vô nghĩa khác như đổi mới, chất lượng và toàn diện…
Định vị chỉ đơn giản là xây dựng hình ảnh thương hiệu được dự định hay có ý niệm trong tâm trí của khách hàng mục tiêu.
Đó là những gì chúng ta muốn người tiêu dùng mục tiêu nghĩ đến khi họ nghĩ về thương hiệu của chúng ta. Vì vậy, hãy cố gắng làm cho nó thật đơn giản và dễ nhớ.
Bản kế hoạch marketing hay thương hiệu của bạn đã nói rất rõ về mục tiêu mà bạn đang theo đuổi. Trong phần định vị, bạn chỉ cần phác thảo ba điều. Đầu tiên, bạn muốn mình sẽ là ai hay được xem là gì.
Thứ hai, đối chiếu với đối thủ cạnh tranh hoặc các lựa chọn thay thế. Và thứ ba, là những gì bạn muốn người tiêu dùng mục tiêu nghĩ về bạn. Hãy dành nhiều thời gian cho cả ba câu hỏi này vì chúng phức tạp hơn rất nhiều so với những gì bạn có thể nghĩ ban đầu.
Trong một số trường hợp bạn có thể muốn định vị thương hiệu, định vị doanh nghiệp hay đôi khi là định vị cho một dòng sản phẩm cụ thể.
Các đối thủ cạnh tranh hay sản phẩm thay thế cũng sẽ là một rào cản lớn trong quá trình định vị của bạn. Hãy tìm hiểu xem, ngoài bạn ra, khách hàng đang sử dụng hay có ý định sử dụng những dòng sản phẩm nào và lý do tại sao.
Cuối cùng, khi nói đến việc bạn muốn khách hàng nghĩ gì về mình, lời khuyên cho bạn là hãy đưa ra quyết định dựa trên ba thứ, thứ nhất là chân dung khách hàng mục tiêu, thứ hai là những tính năng hay yếu tố tình cảm liên quan đến sản phẩm hay dịch vụ của bạn và thứ ba, là lợi thế hay sự khác biệt của bạn so với đối thủ là gì.
Bước 8 – Xác định các điểm đạt được mục tiêu.
Chiến lược marketing của bạn đang đi đến những bước cuối cùng. Bạn đã chọn được một số mục tiêu. Bạn biết bạn muốn được định vị như thế nào trong các phân khúc hay mục tiêu đó. Giờ đây bạn cần phác thảo những gì bạn định làm để đạt được mục tiêu.
Tất nhiên, mục tiêu cuối cùng sẽ là doanh số và lợi nhuận. Nhưng để đạt được điều đó, bạn cần nghĩ ra hơn nhiều. Bạn cần sử dụng đòn bẫy marketing nào? Bạn có cần làm cho khách hàng mục tiêu nhận thức rõ hơn về bạn không? Họ có nên cân nhắc về thương hiệu của mình không? Tại sạo họ nên làm như vậy?
Một bản kế hoạch marketing tốt nên sử dụng một phễu bán hàng và tỷ lệ chuyển đổi so sánh giữa thương hiệu với các đối thủ cạnh tranh để tách biệt các điểm yếu và cơ hội.
Kế hoạch cần sử dụng những thông tin này để đặt ra các mục tiêu rõ ràng và cụ thể cho những gì bạn cần đạt được trong 12 tháng tới.
Sự khác biệt giữa một nhà tiếp thị giỏi với những người còn lại là nhà tiếp thị giỏi có những mục tiêu THÔNG MINH hơn là những khát vọng mơ hồ, không thể đo lường được.
Hãy nhớ rằng bản kế hoạch hay chiến lược marketing của bạn có thể có nhiều mục tiêu và mỗi mục tiêu lớn sẽ cần nhiều mục tiêu nhỏ, tuy nhiên dù cho nó lớn hay nhỏ thì bản chất vẫn phải dựa trên những yếu tố thực tế. Kế hoạch marketing không phải là kế hoạch dùng để chinh phục những giấc mơ.
SMART là cách xây dựng mục tiêu dành cho bạn.
Bước 9 – Xây dựng các chiến thuật thực thi.
Các chiến thuật đánh dấu giai đoạn thứ ba và cũng là những bước đi cuối cùng của bản kế hoạch, và bạn nên chia chúng cho các mục tiêu khác nhau.
Những gì tốt nhất để làm điều này là liệt kê tất cả các mục tiêu của bạn và sau đó song song với từng mục tiêu lớn là các chiến thuật nhỏ mà bạn cần thực hiện để hoàn thành chiến lược trong năm tới, tất nhiên, các chiến thuật phải đi cùng với mức chi phí ước tính.
Lý tưởng nhất, bạn liệt kê tất cả các mục tiêu và tóm tắt bản kế hoạch marketing của bạn thành một bức tranh chiến thuật tổng thể trên một sơ đồ Gantt duy nhất.
Sơ đồ gantt trong lập kế hoạch
Bước 10 – Phân bổ ngân sách cho kế hoạch marketing.
Cuối cùng, bạn đang tiến tới một trong những slide quan trọng nhất của bản kế hoạch.
Trong khi tất cả trưởng của các bộ phận có thể chăm chú nghe bạn trình bày trong suốt bản kế hoạch mà không có nhiều ý kiến thắc mắc, tuy nhiên đến phần này thì mọi thứ dường như khó khăn hơn bạn nghĩ.
Họ sẽ tìm đủ mọi cách để kiểm tra tính xác thực của bản kế hoạch của bạn trong khi họ cũng xem chi tiết đến các phần dữ liệu cụ thể.
Chi phí của kế hoạch này là bao nhiêu? Và liệu kế hoạch này có mang lại mức lợi nhuận cao nhất dựa trên những nguồn lực đã đầu tư hay không?
Bất kỳ nhà quản lý cấp trung nào cũng có thể kiểm tra bạn bằng cách hỏi xem liệu mức ngân sách đó có thể giảm đi trong khi vẫn đảm bảo đạt được các mục tiêu chung hay không.
Nếu Sếp của bạn muốn bạn chi tiêu ít hơn, bạn có thể sẽ phải chấp nhận. Tuy nhiên, bạn cũng cần phải điều chỉnh mức doanh số hay lợi nhuận dự kiến sao cho phù hợp.
Bạn hãy nhớ rằng, mặc dù hầu hết các doanh nghiệp sẽ họp và đồng ý với kế hoạch chi tiêu marketing cho năm tới từ rất lâu trước khi bạn bắt đầu thực hiện kế hoạch của mình, nhưng về bản chất thì mọi thứ vẫn có thể được thay đổi.
Nếu kế hoạch của bạn có thể diễn ra đúng hoặc gần đúng so với những gì mà bạn đã lên mục tiêu, mọi thứ khá ổn, ngược lại nếu mọi thứ diễn ra quá chệch hướng so với kế hoạch thì có khả năng cao là ban lãnh đạo sẽ có các mức điều chỉnh tức thời đối với bạn.
Học Marketing ra trường nên chọn Agency Side hay Client Side?
Agency Side là gì? Agency là thuật ngữ được sử dụng trong ngành marketing dùng để miêu tả các doanh nghiệp chuyên cung cấp các dịch vụ liên quan đến marketing (marketing service) và quảng cáo nói chung.
Những người làm marketing chọn làm việc tại các đơn vị này được gọi là Agency Side, ngược lại thì gọi là Client Side, dùng để miêu tả các marketer đang làm việc cho các nhãn hàng (Brand) và doanh nghiệp ngoài Agency.
Một câu hỏi được không ít các bạn newbie đặt ra là, nên chọn làm việc tại agency hay client, một lần nữa cũng tương tự như câu hỏi “marketing là gì”, bạn đừng chờ đợi một câu hỏi hoàn hảo và “đúng đắn” nhất.
Tuỳ thuộc vào mỗi mục tiêu cá nhân hay các công việc cụ thể được mô tả (JD) cho các vị trí, bạn là người quyết định mình nên theo đuổi con đường nào.
Một gợi ý dành cho bạn là, bạn có thể thử làm việc ở cả hai kiểu doanh nghiệp, sau đó quyết định đâu mới là nơi dành cho mình.
Một số câu hỏi thường gặp trong ngành Marketing là gì?
Bởi tính chất biến động tương đối nhanh, bản thân ngành marketing không ngừng thay đổi trong những năm qua, cũng vì chính điều này, có không ít bạn cảm thấy lo lắng trước khi chọn marketing là nghề để theo đuổi.
Dưới đây là một số câu hỏi thường gặp nhất về marketing bạn có thể tham khảo và tự vấn cho bản thân.
- Làm marketing có khó không?
Câu trả lời phù hợp nhất có thể là không khó cũng không dễ, miễn là bạn đam mê với ngành, sẵn sàng thay đổi theo những gì doanh nghiệp và khách hàng cần, mọi thứ sẽ tốt dần lên.
- Làm marketing bao nhiêu lâu thì lên được vị trí quản lý (manager)?
Không có bất cứ một khoảng thời gian nào cụ thể cho câu hỏi này, tuỳ thuộc vào năng lực và các điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, mà khoảng thời gian có thể khác nhau.
Tuy nhiên, nếu xét ở mức độ trung bình, bạn có thể mất khoảng từ tối thiểu 3-5 để đạt được các vị trí quản lý.
- Mức lương của marketing là bao nhiêu?
Về cơ bản, với ngành marketing, mức lương của các vị trí biến đổi rất nhiều tuỳ thuộc vào năng lực và giá trị cống hiến cụ thể tại mỗi doanh nghiệp.
Có thể bạn cùng cấp bậc với một bạn khác ở một doanh nghiệp khác tuy nhiên mức lương lại có thể khác nhau rất nhiều.
Sẽ là hết sức bình thường nếu bạn phát hiện ra rằng một marketing executive lại có mức lương cao hơn một marketing manager.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp lớn hơn và đầu tư chuyên nghiệp hơn thường có mức đãi ngộ cao hơn so với các doanh nghiệp nhỏ hơn (không luôn luôn).
- Cần làm gì để có thể thăng tiến nhanh hơn trong ngành marketing?
Ngoài việc bạn phải liên tục trau dồi các kỹ năng đã được đề cập trong các phần nói trên và cả các công việc liên quan ở các mô hình quản trị marketing, người làm marketing cần trang bị cho mình những tư duy mở, sáng tạo, dám chấp nhận thất bại để học hỏi, tò mò và không ngừng học hỏi.
Kết luận.
Trên đây là những tương đối toàn cảnh về ngành marketing nói chung, hy vọng nếu bạn băn khoăn chưa biết marketing là gì, nó có những gì và có nên theo đuổi hay không, thì đến đây bạn đã có thể có được cho mình những câu trả lời hoàn chỉnh.
Anh Tài – Simple Page
Nguồn : MarketingTrips
Tham khảo dịch vụ làm landing page chuyên nghiệp tại https://simplepage.vn/dich-vu-thiet-ke-landing-page